TNHH KM UNION | 0932.124.427TNHH KM UNION | 0932.124.427

Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử là gì?

1. CĂN CỨ PHÁP LÝ

Điều 386 Chương XXIV Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản như sau:

Điều 386. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử

1. Người nào đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người áp giải.

2. DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ ÁP GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ

2.1. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM

Tội phạm xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Đối tượng tác động của tội phạm này mà người phạm tội nhằm vào là sự giám sát của các lực lượng bảo vệ, canh gác, dẫn giải. Người phạm tội có thể lợi dụng sự mất cảnh giác của lực lượng bảo vệ, canh gác, dẫn giải để bỏ trốn, nhưng cũng có thể người phạm tội dùng những thủ đoạn khác như: mua chuộc, khống chế hoặc dùng vũ lực đối với lực lượng bảo vệ, cánh gác, dẫn giải để thực hiện được mục đích của họ là bỏ trốn.

Như vậy, khách thể của tội phạm là hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi bỏ trốn của người đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù.

Người phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang dẫn giải, đang bị xét xử thực hiện hành vi “bỏ trốn” với nhiều thủ đoạn khác nhau, có trường hợp công khai nhưng đa số là lén lút đối với người canh giữ hoặc người dẫn giải. Bỏ trốn là thoát khỏi sự quản lý của người canh giữ hoặc người dẫn giải.

Người đang bị giam trong các trại giam (trại cải tạo) bỏ trốn là trốn tránh việc chấp hành hình phạt tù. Hành vi bỏ trốn này có trường hợp được tổ chức chặt chẽ với quy mô lớn, kèm theo hành vi bỏ trốn có thể người phạm tội còn thực hiện các hành vi phạm tội khác như: chống người thi hành công vụ; cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ; giết người; huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản…Những người đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam thường lợi dụng vào việc mất cảnh giác của cán bộ quản giáo trong khi lao động cải tạo để bỏ trốn, nhất là những nơi hẻo lánh, xa khu dân cư. Đây là điều kiện tuận lợi nhất để người đang chấp hành hình phạt tù bỏ trốn.

Người đang bị tạm giam, tạm giữ bỏ trốn là trốn tránh khỏi bị truy cứu trách nhiệm hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng đối với họ. Hành vi bỏ trốn này, người phạm tội chủ yếu lợi dụng việc được ra khỏi buồng giam, buồng tạm giữ như: trong khi đang bị hỏi cung, người phạm tội xin phép cán bộ điều tra đi đại tiện, tiểu tiện rồi bỏ trốn; giả vờ ốm để được đưa đi bệnh viện rồi bỏ trốn; lợi dụng được nằm điều trị tại bệnh viện rồi bỏ trốn; lợi dụng khi thực nghiệm điều tra để bỏ trốn.

Người đang bị dẫn giải bỏ trốn là trốn việc chấp hành hình phạt tù hoặc hình phạt tử hình, hoặc trốn sự truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi bỏ trốn này thường được thực hiện bằng thủ đoạn lợi dụng sự mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm của lực lượng dẫn giải hoặc người phạm tội dùng thủ đoạn mua chuộc, khống chế, dùng vũ lực đối với lực lượng dẫn giải để tẩu thoát.

Người đang bị xét xử bỏ trốn là lợi dụng lúc Toà án đang xét xử (xét xử sơ thẩm hoặc phúc tẩm) để bỏ trốn. Hành vi bỏ trốn tại phiên toà thường là của bị cáo bị giam hoặc bị tạm giam nhưng cũng có trường hợp những người bị giam hoặc bị tạm giam có mặt tại phiên toà chỉ là người làm chứng hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án khác. Tại phiên toà do có nhiều người tam dự, bị cáo lại không bị khoá tay, nhất là lúc Hội đồng xét xử nghỉ giải lao hoặc trong thời gian nghị án, nên đã lợi dụng sự thiếu cảnh giác của lực lượng canh giữ hoặc mua chuộc người canh giữ để bỏ trốn.

Hậu quả của tội phạm này là người phạm tội thành công việc bỏ trốn. Tuy nhiên hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Dù người phạm tội có bỏ trốn thành công hay không thì tội phạm đã hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khách quan xảy ra.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ những người đang bị giam, đang bị giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang bị xét xử mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.

Người đang bị giữ là người đã có quyết định tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hoặc người bị bắt theo lệnh truy nã, bị bắt do phạm tội quả tang hoặc bị bắt theo lệnh bắt khẩn cấp. Những người bị giữ theo quyết định hành chính, nếu bỏ trốn thì không phải là chủ thể của tội phạm này, kể cả trường hợp sau khi bị bắt lại họ bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, vì thời điểm họ bỏ trốn họ chưa bị áp dụng biện pháp tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Người đang bị dẫn giải là người đang bị giam, giữ nhưng đang bị dẫn giải từ nơi này đến nới khác (từ trại giam, tại tạm giam, nhà tạm giữ đến trại giam, tại tạm giam, nhà tạm giữ khác hoặc dẫn giải bị can, bị cáo đến phòng xử án để Toà án xét xử…); người bị bắt theo lệnh truy nã, bị bắt do phạm tội quả tang, bị bắt khẩn cấp đang bị dẫn giải về nhà tạm giữ, trại tạm giam.

Người đang bị xét xử là bị cáo bị giam hoặc bị tạm giam nhưng đang bị Toà án xét xử tại phòng xử án đã lợi dụng sự thiếu cảnh giác của lực lượng canh giữ đã bỏ trốn khỏi phòng xử án. Đối với bị cáo không bị tạm giam hoặc bị giam (tại ngoại) đã đến phiên toà nhưng trong quá trình xét xử họ vắng mặt không có lý do thì không phải là chủ thể của tội phạm này.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXIV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội bỏ trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang dẫn giải, đang bị xét xử thực hiện hành vi phạm tội của mình là do lỗi cố ý trực tiếp. Tức là biết rõ hành vi của mình là hành vi trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra.

Mục đích chung của người phạm tội là trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật đối với hành vi phạm tội do mình thực hiện; người phạm tội có thể vì nhiều động cơ khác nhau như: bỏ trốn để về trả thù người đã tố cáo mình, bỏ trốn về thăm bố, mẹ, vợ, chồng hoặc con; bỏ trốn để tiếp tục phạm tội khác; bỏ trốn để gặp lại đồng bọn giải quyết việc ăn chia không sòng phẳng; bỏ trốn để đòi nợ; bỏ trốn để thanh lý xong các hợp đồng kinh tế.v.v…

3. HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ ÁP GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ

Điều 386 Bộ luật Hình sự quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

– Người nào đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người áp giải.

Nhận xét

Designed by W.O.A.
blank